MỤN TRỨNG CÁ DO THUỐC

Mụn trứng cá do thuốc (Drug-induced acne – DIA) là một bệnh da phổ biến có biển hiện giống với trứng cá thông thường. Mụn trứng cá do thuốc (DIA) đặc trưng bởi sự khởi phát đột ngột của các tổn thương dạng sẩn viêm hoặc sẩn mủ đồng dạng có thể xuất hiện ở những vùng không tiết nhiều bã. Bệnh nhân có thể ở nhiều độ tuổi khác nhau, tiền sử sử dụng các thuốc có khả năng gây trứng cá theo đường toàn thân, đường bôi, thậm chí là đường hít.

Chẩn đoán dựa vào khai thác kỹ tiền sử dùng thuốc, biểu hiện lâm sàng của bệnh

Nội dung :

1. Nguyên nhân và triệu chứng lâm sàng của mụn trứng cá do thuốc.

Tổn thương cơ bản chủ yếu là các sẩn viêm hoặc mụn mủ đồng dạng, xuất hiện sau khi dùng thuốc một thời gian, tuy nhiên biểu hiện lâm sàng tùy theo nguyên nhân mà có một số đặc điểm khác nhau. Trứng cá do các thuốc thường gặp đã biết đến được trình bài dưới đây.

Trứng cá do corticoid

  • Trứng cá do corticoid ngày càng phổ biến do sử dụng thuốc bôi và mỹ phẩm không rõ nguồn gốc tràn lan.
  • Cơ chế bệnh sinh là do tăng tốc độ sừng hóa, hình thành các mụn nhân nhỏ (microcomedone), sự vỡ của nang lông có liên quan với sự hình thành các tổn thương sẩn, mụn mủ trong trứng cá do corticoid.
  • Các yếu tố làm tăng nguy cơ trứng cá do corticoid bao gồm: Liều thuốc/nồng độ cao, thời gian sử dụng, người trẻ <30 tuổi, tiền sử bị trứng cá trước đó.
  • Thời gian xuất hiện tổn thương: Sau dùng thuốc từ 2-4 tuần tới vài tháng
  • Tổn thương cơ bản là các sẩn viêm và mụn mủ đồng dạng, sẩn có dạng vòm, kích thước đồng đều hồng hoặc đỏ.
  • Vị trí thường gặp khi dùng corticoid toàn thân thường là vùng mặt, thân mình và có thể lan ra các chi; với corticoid bôi, tổn thương liên quan tới vùng bôi thuốc. Mụn nhân có thể xuất hiện nổi bật trong trường hợp dùng corticoid đường bôi hoặc dùng liều corticoid thấp hoặc ở giai đoạn thay thế các mụn viêm trong một vài tháng sau khi mụn viêm biến mất. Tổn thương nang, nốt hiếm gặp. Trứng cá do corticoid dễ nhầm lẫn tổn thương của viêm nang lông do malassezia.

Mụn trứng cá do corticoid

Trứng cá do steroid đồng hóa (anabolic steroids)

  • Steroid đồng hóa (Anabolic-androgenic steroids – AAS) đại diện cho một nhóm các hormon steroid tổng hợp liên quan tới testosteron. Trứng cá xảy ra khoảng 50% ở những người tập thể hình lạm dụng AAS.
  • Cơ chế liên quan tới tăng số lượng vi khuẩn P.Acne, cholesterol và acid béo tự do ở lớp lipid bề mặt da, phì đại tuyến bã. Cơ chế hoạt động của AAS khác nhau giữa các hợp chất do sự thay đổi trong phân tử và ái lực với các thụ thể androgen.
  • Biểu hiện lâm sàng thay đổi từ tăng tiết bã nhờn tới sẩn mủ, trứng cá tối cấp, trứng cá mạch lươn. Nếu trứng cá có từ trước thì trở nên trầm trọng và khó điều trị hơn.
  • Các biểu hiện khác gợi ý lạm dụng AAS là rậm lông, hói, chứng vú to, rạn da, phù, tăng BMI, giảm thể tích tinh hoàn.

Trứng cá do testosteron

  • Trên lâm sàng, hầu hết testosteron được sử dụng dưới dạng este có tác dụng kéo dài hơn thông qua đường tiêm bắp, cấy ghép hoặc qua da (miếng dán, gel). Những đường dùng này không thuận tiện và nồng độ testosterone thường dao động trong máu dẫn tới biểu hiện mụn trứng cá.
  • Testosterone gây mụn trứng cá ở cả hai giới:
    • Ở nam giới, testosterone được sử dụng để điều trị chứng suy sinh dục và vóc dáng quá cao hoặc liệu pháp hormon thay thế ở đàn ông cao tuổi. Điều trị testosteron liều cao dường như gây khởi phát trứng cá tối cấp, người ta quan sát thấy 1-2% trẻ vị thành niên được điều trị tầm vóc quá cao bằng testosteron xuất hiện trứng cá tối cấp.
    • Ở phụ nữ, trứng cá khởi phát mụn được quan sát thấy khi điều trị thay thế testosteron sau cắt bỏ buồng trứng hoặc phụ nữ sau mạn kinh.
  • Ở cả hai giới, testosteron còn được sử dụng để điều trị các bệnh mất protein như ung thư, bỏng, chấn thương, AIDS, thiếu máu thứ phát sau suy thận mạn, thiếu máu bất sản tủy và phù mạch di truyền. Tất cả các trường hợp trên đều ghi nhận tác dụng phụ là mụn trứng cá.

Trứng cá do lithium

  • Lithium được dùng trong chuyên khoa tâm thần dưới dạng lithium citrate và lithium carbonat, chủ yếu trong điều trị và dự phòng rối loạn cảm xúc. Liệu pháp lithium lâu dài gây ra nhiều vấn đề da liễu như DIA và vảy nến.
  • Cơ chế: Lithium không phải tác động theo cơ thế thụ thể androgen mà thông qua tác động trực tiếp, đôi khi ảnh hưởng độc trên biểu mô nang lông. Trứng cá do lithium gây ra có thể go tác dụng hóa ứng động bạch cầu đa nhân trung tính, giải phóng các hạt gây ra hiện tượng viêm (như trong vảy nến). Nút sừng nang lông có thể do lithium ảnh hưởng trực tiếp lên tế bào sừng nang lông làm tăng hoạt động. Không có mối liên quan rõ rệt với nồng độ lithium huyết thanh, trứng cá có thể xuất hiện ngay cả khi nồng độ lithium trong huyết thanh bình thường mặc dù nồng độ lithium cao trong da, điều này gợi ý thuốc có thể tích lũy trong da.
  • Trứng cá do lithium thường gặp ở nam giới, xuất hiện sau 2-6 tháng điều trị, tổn thương cơ bản bao gồm sẩn, mụn mủ đơn dạng ở mặt, thân mình và chi, tổn thương thường nghiêm trọng như trứng cá mạch lươn, viêm tuyến mồ hôi mủ cũng được nhắc tới. Thường cso tổn thương sẹo sau viêm.

Trứng cá do isoniazid

  • Isoniazid được báo cáo gây ra mụn trứng cá khi dùng một mình hoặc kết hợp với rifampicin và ethabutol, tỷ lệ gặp từ 1,42% – 2,5%. Trứng cá xuất hiện sau một thời gian dài (tối đa 18 tháng) điều trị bằng isoniazid. Tổn thương cơ bản chủ yếu là sẩn viêm, thường ở mức độ nhẹ.

Trứng cá do isoniazid

Trứng cá do halogens (Lod, Clo, Brom)

  • Chất hóa học chứa iod, brom hoặc các halogen khác có lẽ cũng được bài tiết bởi các tuyến bã và có liên quan tới các phát ban đặc hiệu được gọi là iododerma, bromoderma và chloracne. Iot và brom có thể gây ra các tổn thương nốt viêm lớn hoặc đôi khi là tổn thương sùi, bọng nước hoặc tổn thương tương tự viêm da mủ hoại thư và chốc loét. Tổn thương cũng có thể chỉ xuất hiện dưới dạng trứng cá viêm nặng ở mặt, thân mình hoặc bất kỳ vị trí nào của cơ thể.
  • Iot thường được sử dụng dưới dạng uống, tiêm và tại chỗ, thường xuất hiện trên bệnh nhân suy thận, được báo cáo sau khi tiêm thuốc cản quang đường tĩnh mạch, đặt thông tim, chụp cản quang đường niệu, chụp hạch, dùng muối iốt, sử dụng KI điều trị bệnh tuyến giáp, dùng amiodaron, tảo biển. Các tổn thương da có thể xuất hiện dưới dạng sẩn, mụn nước, mụn mủ nhưng có thể là ban đỏ, nhọt, nhọt cụm, mày đay và dạng sùi, dạng trứng cá, xuất hiện ở vùng bã nhờn (mặt, cổ, lưng) rồi lan ra các vị trí khác của cơ thể.
  • Brom được tìm thấy trong các loại thuốc an thần, chống co giật, thuốc chống co thắt và thuốc long đờm. Triệu chứng da khá giống với nguyên nhân iod, ngoài ra còn có biểu hiện như giảm sắc tố, nhạy cảm ánh sáng, phát ban dạng dát. Xét nghiệm có tăng nồng độ iod hoặc brom trong huyết thanh và nước tiểu.
  • Trứng cá do clo thứ phát sau nhiễm độc hệ thống với các chất có clo liên kết với nhím hidrocarbon thơm, có thể do nghề nghiệp hoặc ô nhiễm môi trường cục bộ. Biểu hiện lâm sàng khá khác biệt với trứng cá thông thường và do halogen khác bao gồm mụn nhân đóng và mở vùng mặt, chủ yếu ở má, nếp gấp sau tai, đặc biệt mũi hầu như không bị ảnh hưởng tạo nên hình ảnh “đảo trên biển”, ngoài ra có thể ở cẳng tay, lưng, ngực, chân và sinh dục, nách cũng là một vùng đặc biệt bị ảnh hưởng. Tổn thương xuất hiện sau 6-12 tuần tiếp xúc, trong một số trường hợp nặng hơn có thể có các nang màu vàng không viêm ở mặt, cổ, đôi khi có biểu hiện như da gà, các biểu hiện da khác như viêm nang lông, dày sừng nang lông, da khô, tăng sắc tố, không có mụn mủ.

Trứng cá do vitamin B6, B12

  • Chỉ có một vài nghiên cứu chỉ ra ảnh hưởng của vitamin B6 và B12 trong việc gây ra hoặc làm nặng thêm tình trạng trứng cá. Tổn thương xuất hiện sau khi dùng vitamin B12 (5-10mg/tuần) tiêm bắp hoặc uống, liền vitamin B6 chưa được xác định.
  • Cơ chế có thể do sự bài tiết vitamin B12 kéo dài gây kích thích biểu mô nang lông và gây ra phản ứng viêm. Thêm vào đó, sorbitol hoặc iod xuất hiện trong một số chế phẩm với B12 có thể tham gia vào cơ chế bệnh sinh.
  • Tổn thương thường xuất hiện sau 2 tuần với các tổn thương đơn dạng bao gồm sẩn nang lông nhỏ hoặc sẩn mủ ở mặt, đặc biệt là trán và cằm hoặc phần trên của lưng, ngực và cánh tay.

Trứng cá do thuốc điều trị ung thư.

  • Chất ức chế thụ thể yếu tố tăng sinh biểu bỉ (FGFRI): Có thể ngăn cản sự phát triển bình thường, sự biệt hóa và hoạt động của các tế bào sừng, do đó gây ra sự tắc nghẽn của các nang lông. Ngoài ra, FGFRI có thể khiến tuyến bã tăng sản xuất các chất trung gian gây viêm. Thuốc được sử dụng trong điều trị ung thư và thường gây ra trứng cá (85% trường hợp xuất hiện trứng cá mức độ nhẹ đến nặng). Tổn thương thường xuất hiện sau 1 tuần – vài tháng sau khi điều trị, tổn thương thường ở mức độ nhẹ hoặc trung bình gồm các sẩn, mụn mủ, vô khuẩn ảnh hưởng tới mặt và phần trên thân mình. Ngoài ra có thể ảnh hưởng tới chân và mặt duỗi của tay.
  • Thuốc ức chế BRAF (BRAFi) và thuốc ức chế MEK (MRKi): Những thuốc này làm tăng tỷ lệ sống của bệnh nhân ung thư hắc tố di căn có đột biến BRAF. Chất ức chế MEF trametinib đã được thử nghiệm rộng rãi cho ung thư hắc tố di căn cho thấy lợi ích sống vượt trên điều trị hóa trị liệu thông thường. Trametinib thường gây trứng cá, trong một nghiên cứu 10/13 bệnh nhân xuất hiện trứng cá sau 2 tuần đầu điều trị, tổn thương cơ bản là mụn viêm, mụn mủ có vảy thiết xuất hiện nhanh, không có mụn nhân. Điều trị bằng các phương pháp điều trị trứng cá thông thường thấy có hiệu quả sau 3-6 tuần.
  • Thuốc ức chế tăng sinh tế bào nội mạch (VEGFi): Bevacizumab hiện đang được sử dụng để điều trị các khối u khác nhau ở đại trực tràng, phổi, vú, thận và u nguyên bào đệm. Sự phát triển của trứng cá cũng đã được báo cáo trong y văn.
  • Thuốc kháng TNFα: Là thuốc sinh học được sử dụng phổ biến trong điều trị các bệnh như viêm khớp dạng thấp, vảy nến, viêm khớp vảy nến. Một số thuốc thường được sử dụng như infliximab, adalimumab và etanercept, tuy nhiên báo cáo cho thấy chỉ có một vài trường hợp xuất hiện trứng cá do sử dụng nhóm thuốc này.
  • Hóa trị liệu: Capecitabin là một tác nhân hóa học được chuyển đổi từ fluorouracil bởi thymidin phosphorylase, thuốc được sử dụng trong điều trị ung thư ở đại tràng và ung thư vú di căn. Tổn thương trứng cá thường tự hết sau khi ngừng thuốc.
  • Thuốc ức chế miễn dịch: Nghiên cứu của Formicon F và cộng sự (2005) phát hiện 54% bệnh nhân ghép thận xuất hiện tổn thương trứng cá ở mặt, thân trên và cánh tay, các thuốc kết hợp được sử dụng bao gồm cyclosporin, corticosteroid toàn thân, azathioprin, tacrolimus…

2. Chẩn đoán mụn trứng cá do sử dụng thuốc

Chẩn đoán DIA cần kết hợp nhiều yếu tố về tiền sử dùng thuốc và triệu chứng lâm sàng cũng như đáp ứng với điều trị thông thường. Có thể dựa vào một số các đặc trưng sau để hướng tới chẩn đoán DIA.

Tiền sử bệnh:

  • Tuổi khởi phát bất thường: Trước hoặc sau tuổi thanh thiếu niên
  • Khởi phát đột ngột trứng cá ở bệnh nhân không có tiền sử trứng cá thông thường. Hoặc bùng phát trứng cá nặng ở bệnh nhân cso tiền sử tiền cá thông thường mức độ nhẹ. Hoặc trầm trọng thêm trứng cá trước đó.

Triệu chứng lâm sàng

  • Tổn thương trứng cá viêm, đơn dạng
  • Vắng mặt của mụn nhân và nang hoặc chúng xuất hiện mụn và thứ phát
  • Vị trí tổn thương: Có thể ở ngoài vùng da dầu như tay, thân, phần thấp của lưng, bộ phận sinh dục.

Kháng hoặc dai dẳng với các điều trị trứng cá thông thường

  • Mối liên quan với thời gian:
    • Tổn thương xuất hiện sau dùng thuốc gần đây
    • Triệu chứng cải thiện sau khi ngừng thuốc
    • Tái phát sau khi dùng lại thuốc.
  • Jana Kazandjieva (2017) lưu ý 4 điểm khi cân nhắc chẩn đoán DIA là:
    • Tiền sử về thuốc đã dùng bao gồm: Thời điểm dùng thuốc, chế độ dùng thuốc, thời gian dùng thuốc
    • Sự vắng mặt của các yếu tố khởi phát (tăng tiết hormon, bít tắc)
    • Mối liên quan giữa thuốc dùng và khởi phát của tổn thương trứng cá
    • Việc ngừng thuốc dẫn tới cải thiện triệu chứng.

3. Điều trị mụn trứng cá do sử dụng thuốc.

  • Hầu hết các tổn thương trứng cá do thuốc ở mức độ nhẹ sẽ giảm và hết sau khi ngừng thuốc đang dùng. Trường hợp trứng cá do vitamin B, tổn thương trứng cá thường mất đi rất nhanh sau khi ngừng thuốc 8-10 ngày. Trường hợp trứng cá nặng, dai dẳng, trứng cá do testosteron hoặc steroid đồng hóa có thể điều trị bằng các thuốc điều trị trứng cá thông thường.
  • Với trứng cá do Clo, tổn thương có thể kéo dài 15-20 năm sau khi tiếp xúc với clo, điều trị thường khó khăn vì các phương pháp điều trị trứng cá thông thường ít hiệu quả
  • Trứng cá do lithium điều trị vô cùng khó khăn vì retinoid đường uống không thích hợp trong trường hợp này do nguy cơ tác dụng phụ trầm cảm có thể xảy ra (1%). Ngoài ra tương tác thuốc giữa lithium và tetracyclin gây ra tác dụng hiệp đồng, làm tăng nồng độ lithium trong máu.
  • Với trứng cá do chất điều trị ung thư ức chế thụ thể yếu tố tăng sinh biểu bì (FGDRi), có thể lựa chọn thuốc điều trị phân loại theo mức độ điều trị.

Trên đây là những thông tin cơ bản về tình trạng mụn trứng cá do thuốc. Nếu bạn đang gặp các vấn đề tương tự, đừng quên đến Bệnh viện hoặc Phòng khám Chuyên khoa Da liễu để được bác sĩ thăm khám và điều trị kịp thời.

Tham khảo thêm:

ĐIỀU CƠ BẢN CẦN BIẾT VỀ MỤN TRỨNG CÁ

MỤN TRỨNG CÁ LIÊN QUAN ĐẾN RỐI LOẠN NỘI TIẾT

TRỨNG CÁ ĐỎ VÀ NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT

Điều trị mụn trứng cá bằng công nghệ cao tại GSV

Top 5 loại thuốc trị mụn trứng cá “Siêu Hót” tại Phương Trí

 

Đánh giá bài viết :

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *